Thủ tướng Nguyễn Tấn
Dũng và Chủ tịch nước Trương Tấn Sang
Không khó để đoán ra cái đích mà Nguyễn Tấn Dũng đang nhắm
tới trong tương lai không xa. Một cá nhân hoặc một nhóm cá nhân sẽ sẵn lòng chấp
nhận cơ chế chính trị nhiều hơn một đảng hoặc nhiều đảng, thay cho lối mòn độc
đảng quá rủi ro và chỉ chực chờ bùng nổ như hiện nay.
Công tác nhân sự đã “cơ bản hoàn thành”
Thời gian đang chuyển dần về giữa năm. Hà Nội cũng đang
chìm trong cơn nắng nóng tăng nhiệt theo từng tuần lễ, cùng với những trận
giông bão khó có thể lường trước trong năm con Rồng này. Sự biến đổi về thời tiết
như thế cũng tiềm ẩn những toan tính âm thầm trong nội bộ đảng và chính phủ.
Sau vài vụ cưỡng đoạt đất đai ở Tiên Lãng và Văn Giang, dư luận càng đồn đoán
nhiều hơn về một vị tổng thống trong tương lai không xa của đất nước Việt nam hậu
cộng sản.
Đó là Nguyễn Tấn Dũng.
Chưa bao giờ kể từ năm 1975 cho đến nay, vai trò của thủ
tướng lại trở nên đáng giá và hướng đến hình ảnh độc tôn như giờ đây. Được tích
lũy qua hai nhiệm kỳ thủ tướng, gần như toàn bộ khối nhân sự của những bộ ngành
quan trọng nhất đang thuộc về những chủ kiến sắp xếp và điều hành của Nguyễn Tấn
Dũng.
Từ tháng 8/2012, khi chính phủ mới được thành lập và nhận
được sự đồng thuận hầu như không một chút khó khăn từ Quốc hội, người ta đã có
thể nhận ra những gương mặt thân cận nhất với thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng như
Nguyễn Văn Bình – Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, Vương Đình Huệ – Bộ trưởng Bộ
Tài chính, Bùi Quang Vinh – Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Đinh La Thăng – Bộ
trưởng Bộ Giao thông Vận tải… Chưa kể đến một số hội đồng và ủy ban đóng vai
trò tư vấn cho chính phủ cũng bao gồm những người được cho là thuộc phe cánh của
Nguyễn Tấn Dũng.
Mối tương quan trong đảng giờ đây đã trở nên lệch hẳn về
đầu cân chính quyền. Ở đầu cân bên kia, Trương Tấn Sang, bất chấp nhiều cố gắng
để tự PR bản thân, nhưng ứng vào vai trò Chủ tịch nước – một vị trí mà trước và
sau đều thật khó biểu hiện quyền lực, và thực tế là hầu như không có một quyền
lực thực chất nào, đã trở nên mờ nhạt, đặc biệt sau vụ nữ đại biểu Đặng Thị
Hoàng Yến, cùng quê Long An với ông Sang, bị Quốc hội bãi nhiệm.
Trên con đường hành sự của mình, thực ra Trương Tấn Sang
đã có nhiều cơ hội để tiến thân và trở nên một nhân tố nào đó mang tầm đối trọng
với Nguyễn Tấn Dũng. Thế nhưng với sự yếu kém cố hữu về công tác nhân sự và
quan điểm dùng người rất thiếu nhất quán mà đã không thể được cải thiện từ khi
ông Sang còn là Chủ tịch Ủy ban Nhân dân thành phố và Bí thư Thành ủy TP.HCM,
chính ông đã đánh mất những cơ hội đáng quý của mình.
Tại đất Bắc Hà, nơi hội tụ quá nhiều nhân sĩ và kịch sĩ,
có thể nói chỉ riêng việc ông Sang tồn tại được trong suốt nhiều năm trời mà
không bị tuột dốc về mặt chính trị cũng đã là một niềm an ủi lớn đối với ông.
Chỉ có điều, để đạt được hiện tồn có vẻ bền vững ấy, bản thân ông đã phải trả
giá khá nhiều. Không còn tỏa sáng với hình ảnh một vị lãnh đạo năng nổ và nhiều
ý kiến sáng tạo, ông đã dần lui vào hậu trường với nhiều uẩn ức không thể biểu
hiện bằng lời nói và càng không thể bộc lộ qua hành vi. Một số người thân quen
với ông ở TP.HCM đã phải ngạc nhiên khi bình luận khuôn mặt ông như được làm bằng
sáp, với nét chân tình đã chỉ bằng phân nửa người tiền nhiệm của ông – nguyên
Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết.
Một hình ảnh độc tôn
Ngược lại với Trương Tấn Sang, Nguyễn Tấn Dũng – với quầng
mắt hùm hụp thâm sâu qua ngày tháng, lại được xem là một nhân tố nổi bật trong
việc dùng người và đối nhân xử thế.
Với các danh sĩ trong lịch sử, việc dùng người thường có
hai chiều hướng trái ngược: hoặc biết sử dụng người giỏi hơn mình và qua đó chứng
tỏ mình là người giỏi, hoặc dùng người kém hơn mình và phải biết nghe lời. Có lẽ
Nguyễn Tấn Dũng thuộc về trường hợp thứ hai, cũng bởi trong con mắt tuyệt đại
đa số nhân dân và giới quan chức, đây không phải là một vị thủ tướng có đầy đủ
sự sáng dạ và quyết đoán. Thậm chí trong nhiều trường hợp và nhiều chủ đề khẩn
cấp, Nguyễn Tấn Dũng đã tỏ ra chậm chạp một cách không đáng có. Tầm nhận thức của
ông, so với Trương Tấn Sang, được người đời đáng giá thấp hơn.
Thế nhưng tất cả những gì mà Nguyễn Tấn Dũng có được đến
giờ này lại thuộc về công lao của tự thân ông. Đó là một quá trình đấu tranh và
vươn lên không mệt mỏi, để cuối cùng phần lớn bộ máy nhân sự chính quyền các cấp,
từ trung ương đến các địa phương, đều được đánh giá là vây cánh cho ông.
Lợi thế lớn nhất của Dũng là cương vị Thủ tướng – vị trí
có thể ban phát rất nhiều bổng và lộc cho những địa chỉ cần được ban phát. Từ
nhiều năm qua, trong con mắt của lớp quan lại thăng quan tiến chức nhờ luồn lọt
và ân sủng của bề trên, Nguyễn Tấn Dũng đã trở thành một ông vua không ngai. Mà
thực tế với quyền lực tối hậu và vẫn có chiều hướng được tập quyền hóa của
mình, Dũng cũng chẳng cần đến ngai, nếu tình thế không bắt buộc phải như thế.
Vị thế của Nguyễn Tấn Dũng càng được củng cố không chỉ
trong đối nội mà còn trên trường đối ngoại, sau lời đề nghị viếng thăm Brazil
nhưng bị từ chối của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Rõ là trong tầm quan sát của
chính giới quốc tế và ở cả những quốc gia đang phát triển, một con người quá
nhu mì, luôn tìm cách tỏ ra ôn hòa như Trọng đã chẳng thể hiện được vị thế lớn
lao nào. Nói cách khác, ông có vẻ chưa xứng đáng đại diện cho tầm cỡ quốc gia để
đứng cùng hàng hoặc ngang hàng với các nguyên thủ quốc gia khác. Cũng nói cách
khác, đặc tính chính trị thời nay không cần đến những chính trị gia quá khuôn
sáo hoặc giáo điều, cho dù đó có là người vô hại nhất đi chăng nữa.
Tài sản và quyền lực
Giữ được quyền lực cũng có ý nghĩa không kém thua so với
giành giật quyền lực. Những gì mà Nguyễn Tấn Dũng giành được trên chính trường
đã để lại sự trả giá cho cả một nền kinh tế đang trong tình cảnh suy thoái trầm
kha và một xã hội hầu như biến mất nền tảng đạo đức và văn hóa. Thế nhưng điều
được gọi là sự sói mòn niềm tin công dân đối với chính phủ có lẽ không thể quan
trọng bằng việc chính phủ ấy duy trì được quyền lực và hơn thế nữa, các quan chức
chính phủ gìn giữ được tài sản đã tích góp qua nhiều năm.
Nhưng với Nguyễn Tấn Dũng, sau khối tài sản khổng lồ mà
có thể sánh ông với những đại gia giàu có nhất vùng Đông Nam Á, cái mà ông cần
không chỉ là tiền bạc.
Con đường bằng phẳng nhất, diễn biến một cách hòa bình nhất
vào những năm tới chỉ có thể là một cuộc chuyển giao quyền lực êm ái, một cuộc
cách mạng nhung mà không phải đổ máu.
Những gì mà Bắc Kinh đang buộc phải tính toán thì Hà Nội
cũng không nằm ngoài kịch bản đó. Trước làn sóng công phẫn của người dân ngày
càng lan rộng và có thể đạt đến một điểm kích nổ vào bất kỳ thời điểm nào, một
chính phủ muốn duy trì vị thế của mình, và trên hết là vị thế bảo đảm cho các tập
đoàn độc quyền quốc doanh và những tập đoàn tư nhân mới nổi như nhóm lợi ích
ngân hàng, trong đó có Ngân hàng Bản Việt của con gái Nguyễn Tấn Dũng, có điều
kiện để tiếp tục đè gánh nặng tham nhũng và thủ lợi lên đôi vai gày guộc của
người dân đóng thuế và các thành phần doanh nghiệp khác, chỉ là tấm bình phong
dân chủ cần phải được dựng lên càng khéo léo càng tốt.
Vào tháng 11/2011, lần đầu tiên Nguyễn Tấn Dũng đã khiến
cho giới phân tích trong và ngoài nước ngạc nhiên bằng hành động tuyên bố về chủ
quyền của hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trước Quốc hội, đồng thời trở
thành quan chức cao cấp đầu tiên trong đảng đề xuất đất nước cần có một bộ luật
biểu tình.
Với những người ngây thơ, thái độ thay đổi bất ngờ của
Nguyễn Tấn Dũng là có thể chấp nhận được trong hoàn cảnh bộ mặt quốc gia cần có
sự cải thiện ít nhất về phấn sáp. Nhưng những người có kinh nghiệm trong giới
phân tích chính trị và cả báo chí lại đã tỏ ra đặc biệt thận trọng. Không chính
khách nào cho không ai cái gì, cũng như không hành động nào của chính khách lại
không xuất phát từ một động cơ cụ thể. Nhất là sau sự việc người con trai của
Nguyễn Tấn Dũng là Nguyễn Thanh Nghị được tiến cử vào vị trí Thứ trưởng Bộ Xây
dựng, còn con gái của ông là Nguyễn Thanh Phượng lại nắm giữ vị trí chủ chốt tại
một ngân hàng tư nhân rất có tiềm năng là Bản Việt…
Với vai trò độc tôn trong hệ thống chính quyền và gần như
độc tôn trong cả hệ thống đảng, những gì mà Nguyễn Tấn Dũng cần làm giờ đây và
trong tương lai là gìn giữ được quyền lực và tài sản của ông và của gia đình
ông. Về việc này, những người như Nguyễn Tấn Dũng chắc chắn đã suy ngẫm một
cách hết sức nghiêm túc, vì khác với các nước phương Tây, Việt Nam lại quá gần
Trung Quốc, luôn kế thừa quốc gia khổng lồ này không chỉ vô số thủ đoạn chính
trị mà cả những hậu quả chính trị không thể lường trước.
Trong lịch sử Việt Nam qua các triều đại, đã có nhiều cuộc
cách mạng với nhiều đợt hồi tố mà đã làm tiêu tán tàn sản lẫn tính mạng của những
quan chức thuộc triều đại cũ. Còn hiện tại, vị thế của chính quyền đương nhiệm
lại quá khó để tồn tại thêm một thời gian đủ dài, đủ lâu cho các quan chức hưởng
thụ khối tài sản tích cóp từ nhân dân.
Nhưng quá trình tích cóp vô thiên lủng như thế cũng lại
gây ra một sự phát tác theo chiều hướng ngược lại: đến lúc này, ngay cả những
quan chức lạc quan nhất trong đảng cũng phải thừa nhận số phận của đảng cầm quyền
chỉ còn được tính theo đơn vị từng năm một. Đã có không ít kẻ âm thầm dịch chuyển
tài sản, tiền bạc và cả người thân ra nước ngoài – một biểu hiện hoàn toàn
tương đồng với giới quan chức Trung Quốc. Cũng đã có những đồn đoán không mấy
thầm kín về một khả năng biến động mạnh sẽ diễn ra vào những năm 2014-2015, khi
không khí phẫn uất của người dân đã tích lũy đủ lớn để có thể tạo ra sự đào thải
chính quyền từ chính bản chất của nó.
Sẽ là “Tổng thống Nguyễn Tấn Dũng”?
Ngã rẽ duy nhất trong cơ chế chuyển giao quyền lực không
đổ máu và ít hao tiền tốn của chỉ còn là động thái thỏa hiệp với nhân dân – một
thứ nhân dân giả hiệu nào đó do giới quan chức nặn ra, hoặc cùng lắm thì mới phải
thảo luận về dân chủ với những người đối lập với chính quyền – nhưng lại được đại
đa số xem là nhân dân đích thực.
Cũng bởi thế, không khó để đoán ra cái đích mà Nguyễn Tấn
Dũng đang nhắm tới trong tương lai không xa là một cuộc chuyển giao quyền lực,
hay nói cách khác là sự thay đổi vị trí quyền lực, từ vai trò thủ tướng sang
vai trò của một người đứng đầu quốc gia trong điều kiện hiến pháp được cách mạng
hóa. Để có được kết quả ấy, một cá nhân có thể sẵn sàng hy sinh cả điều 4 Hiến
pháp và sẵn sàng chối bỏ tư tưởng cộng sản – điều mà từ lâu họ đã không còn thuộc
về nó, nhưng lại vẫn cần nó vào bất cứ hoàn cảnh nào cần phải bảo vệ quyền lực
của mình. Cũng có nghĩa là một cá nhân hoặc một nhóm cá nhân sẽ sẵn lòng chấp
nhận cơ chế chính trị nhiều hơn một đảng hoặc nhiều đảng nhưng có vẻ ổn định và
đỡ tốn xương máu, thay cho lối mòn độc đảng quá rủi ro và chỉ chực chờ bùng nổ
như hiện nay.
Vấn đề còn lại chỉ là cuộc đấu tranh giữa các phe phái
xem ai có thể trở thành thủ lĩnh dân tộc trong tương lai, bất kể người dân có
muốn bầu cho họ hay không. Không phải các thành viên của Bộ Chính trị đảng
không tơ tưởng về vấn đề nhạy cảm của thủ tướng. Thậm chí từ nhiều năm trước
đây, một phương án chuẩn bị cho Đảng Cộng sản tiến hành tranh cử trong điều kiện
đa đảng đã được chấp bút. Chỉ có điều, như một thông lệ bất thành văn, trước
khi Bắc Kinh lên tiếng chính thức về một chủ đề cực kỳ quan trọng nào đó, không
một ai trong giới lãnh đạo Việt Nam dám thở mạnh.
Những ngày gần đây, lần đầu tiên có dấu hiệu Tổng Bí thư
Nguyễn Phú Trọng cũng bắt đầu tìm cách nổi lên như một quyền lực mới, tuy còn rất
mỏng manh. Cùng với Trương Tấn Sang, đó sẽ là những thách thức đầy ngán ngại đối
với Nguyễn Tấn Dũng trên con đường vươn tới cơ chế cộng hòa đại nghị và chức vị
tổng thống Việt Nam của ông.
Ít nhất, đó cũng là một giấc mơ riêng của những quan chức
như Nguyễn Tấn Dũng mà người khác không có quyền xâm phạm. Chỉ là không có bất
kỳ sắc màu nhân dân nào trong giấc mơ đó mà thôi.
Từ nay trở đi, câu chuyện mà chúng ta đang kể sẽ còn tiếp
diễn với những chi tiết phong phú và không kém quyến rũ, khiến những người đau
đáu về hiện tồn và tương lai Việt Nam không thể bỏ qua. Cũng trong câu chuyện
này, tâm điểm Nguyễn Tấn Dũng vẫn sẽ là một nhân tố mà chúng ta luôn cần quan
tâm và cần luận bàn vào những thời khắc gay cấn nhất trên chính trường Việt
Nam.
Tạp Chí Phía Trước
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét